D,L : "... Lòng mẹ
thương con vô bờ - vô
bến.....!" Nhà thơ Y
Vân có viết: " ........
Lòng mẹ thương con
như biển Thái Bình dạt
dàọ... ...... Tình mẹ tha
thiết như dòng suối
hiền ngọt ngào..."
Mỗi lần xem ti-vi dến tiết mục
quảng cáo, nghe người ta nói
như đinh đóng cột rằng "Bệnh
phong ngày nay đã được điều trị
khỏi hoàn toàn", bà Ngọ lại bật
khóc. Có người biết chuyện kể
rằng:
Ngày ấy, khi đi lấy chồng bà Ngọ
mới mười bảy tuổi. Năm mười
tám thì bà sinh anh Hòa, rồi đến
chị Thà, anh Lý, chị Mân. Năm
chị Mân lên ba tuổi thì ông Ngọ
qua đời. Từ ấy bà không tái giá,
quần quật một mình nuôi bốn
con nhỏ. Mười tuổi, Hòa đã biết
theo mẹ ra đồng dắp bờ, gieo
mạ, cấy lúa, gặt hái. Mười lăm
tuổi, anh là lao động chính.
Ngoài việc đồng áng, anh còn có
biệt tài câu tôm, có thể nói là
độc nhất vô nhị ở xóm Vàm Dinh
này. Chỉ cần nhìn địa thế dòng
nước anh sẽ đoán được tôm ở đó
nhiều hay ít, đêm ấy anh câu
được bao nhiêu. Khi lúa vào bồ
xong, anh xuống ghe hết sông
này tới rạch nọ, năm bảy ngày
mới về nhà một lần, mang kè kè
cái gọng tôm đầy ắp, đủ cho mẹ
và mấy đứa em ăn đến lần về
chuyến sau. Số tiền bán tôm
dược, anh đều đưa hết cho mẹ,
cộng với mấy mùa lúa trúng liên
tục, gia dình anh khá lên trông
thấy. Ba đứa em anh được ăn
học đàng hoàng. Năm anh mười
tám nhiều gia dình ngấp nghé
muốn gả con gái cho. Nhưng anh
từ chối: "Để cho mấy đứa nhỏ
học hành đến nơi đến chốn !".
Thế rồi, Hòa bỗng nổi lên một
triệu chứng lạ. Mặt anh hồng
hào, bóng lưỡng khác thường,
trên người mọc nhiều chấm đỏ.
Bà Ngọ đưa anh đi khám, người
ta bảo anh bị bệnh cũi. Anh bàng
hoàng đau đớn. Còn bà Ngọ
tưởng chừng như ngất đi được.
Người ta bảo bà đưa con vào trị
cùi Hàn Mặc Tử. Bà cự tuyệt: "
Nó ra sao đi nữa vẫn là con
tôi !". Có người mách mài vàng
cho anh uống, nó sẽ lì lại. Bà làm
theo. Anh cương quyết không
uống : " Từ đây về sau con
không làm gì ra tiền nữa. Má để
dành số vàng ấy cho mấy dứa
nhỏ ăn học và dưỡng già !". Bà
khóc, bất lực. Trong những ngày
tay chân chưa bị rút, Hòa vẫn đi
câu tôm. Nhưng tôm anh câu
được bán chẳng ai mua, và
chẳng ai còn mộng gả con gái
cho anh. Người ta xa lánh anh.
Ngay cả thằng Lý, con Mận cũng
chẳng dám ăn tôm của anh.
Chúng thấy anh ở nhà trên là
rút xuống nhà dưới. Còn Thà học
lớp mười ở trên huyện, mỗi lần
về nhà cũng khạc nhổ lung tung.
Đêm ấy đợi chúng ngủ hết, anh
gọi bà Ngọ ra sân, bàn: " Má à !
Thân con bệnh hoạn, để tránh
lây cho má và các em, con lên
Nền Ngãi cất chòi ở riêng !". Nền
Ngãi nó xứng dáng với tên gọi
đó. Bởi mấy mươi công đất vô
chủ mọc toàn là ngãi. Có truyền
thuyết kể rằng, đó là ngãi bùa
của một lão người Chà trồng để
dùng vào việc gọi hồn bắt vía.
Ngãi ăn toàn thịt gà. Khi lão
ngươi Chà về Ấn, ngãi đói đã
cuốn một chú mục dồng vào ăn
thịt, khi chú đứng thả diều gần
dó. Chuyện là hư, nhưng việc lại
thực : không ai dám tới gần Nền
Ngãi. Nghe anh Hòa nói, bà Ngọ
khóc ròng :"Khộng dược Hòa ơi !
Con ở trên dó một mình đêm
hôm gió máy làm sao má hay,
má biết. Nếu được đổi mệnh cho
con má đây cũng sẵn sàng, nói
chi đến chuyện sợ lây !". "Con
hiểu má ! Nhưng má phải
thương cho ba đứa nhỏ. Nếu
chúng lây bệnh tội lắm !". "Vậy
má sẽ lên Nền Ngãi ở với con !".
"Má còn phải lo cho ba đứa
nhỏ !". Sáng lại anh Hòa lên Nền
Ngãi phát bỏ một góc làm nền
cất chòi. Cản không được, bà
Ngọ nấu cơm đem lên và phụ
anh một tay. Bà bảo ba đứa nhỏ
nghĩ học ở nhà một ngày, thằng
Lý ra vườn dốn cây, con Thà con
Mận dốn lá, xé lạt, chầm. Chúng
mừng rơn vì từ nay không còn bị
ở chung với thằng cùi, nên đứa
nào cũng làm việc cật lực. Nếu là
ngày trước, phát ngãi đắp nền
anh chỉ làm vài tiếng đồng hồ.
Bây giờ tay chân anh không còn
tuân theo lý trí, nên hai mẹ con
làm quần quật từ sáng đến chiều
mới xong. Anh Hòa về nhà chở
cây lá lên dựng chòi ngay đêm
ấy. Bà Ngọ bịt chổ này, chận chổ
kia sợ gió lọt vào làm lạnh con
bà. Đến sáng căn chòi mới hoàn
thành.
"Ra ở riêng", anh không mang
theo thứ gì quý giá, chỉ lấy chiếc
ghe, bộ đồ nghề câu tôm, cây
len, bộ ván, cái mùng cũ và xin
bà Ngọ mua cho cái võng mới.
Mới dầu anh định đem xoong nồi
tự nấu, nhưng bà Ngọ bảo sẽ
đem cơm lên cho anh ngày hai
bữa. Anh Hòa lên Nền Ngãi, bà
Ngọ cảm thấy căn nhà sao trống
trải lạnh lùng. Đêm nào bà cũng
khóc. Mặc dù ngày hai lượt bà
đem cơm lên Nền Ngãi và cũng
hai lượt đem tôm trở về. Bán
chẳng ai mua, ba dứa nhỏ thì
không dám ăn tôm của thằng
cùi, chỉ mình bà ăn. Bệnh của
Hòa ngày càng lan, tay chân rút
lại, vấn thuốc một cách khó
nhọc. Thấy vậy bà vấn sẵn mươi
mười lăm điếu đem lên mỗi
ngày. Cứ mỗi lần thè lưỡi liếm
giấy quyến cuốn lại cho chặt là
bà ho sặc sụa. Riết rồi cũng
quen. Bà nghĩ vấn thuốc đã khó,
hẳn câu tôm lại càng khó hơn.
Bà bảo anh đừng đi câu tôm nữa.
Bà đã ngán lắm rồi. Chiều ấy bà
thấy tay anh chảy máu dường
như bị vật gì dó cọ xát vào vết
thương. Bà xé vạt áo băng lại
cho anh và chống xuồng vào
xóm mua thuốc nhức, thuốc cảm.
Bà nói: "Hòa à, đêm nay má ngủ
lại đây với con !". "Dạ !". Giọng
anh không còn trong, mũi đã
xẹp. "Má ngủ trên võng
nghen !". Cái võng đêm đầu tiên
dựng chòi anh giăng. Nhưng
chưa bao giờ anh nằm, chỉ dành
cho bà Ngọ ngã lưng, mỗi khi bà
dem cơm lên. Bà nói : "Thôi, để
má ngủ chung với con !". "Con
không quen ngủ chung với ai má
à !". Bà hiểu ý con, sợ lây bệnh
cho mẹ. Bà bước dến giường, sập
mùng : "Để má đập muỗi cho
con ! ". "Đừng má ! Mắt má lem
nhem ! Không khéo cháy mùng,
rồi cháy chòi con mất !". Bà
không muốn làm trái ý đứa con
tội nghiệp, nên xuống võng nằm.
Anh hỏi :"Mấy đứa nhỏ năm nay
lên lớp hết không má ?". "Lên
hết !" Con Thà sắp thi hết cấp ba
rồi. Nó học giỏi lắm. Năm nào
cũng được khen. Hai đứa kia
cũng vậy !". Anh hỏi thăm bà
con ở trong xóm và nhắc mẹ
mùng 9 tới đám giổ ba. Được
một lúc anh thiếp đi, vì trong
thuốc cảm có kèm thuốc ngủ. Bà
rón rén bước tới, giở mùng,
chung vào ngồi bó gối nhìn thân
hình tàn phế của con qua những
giọt nước mắt lăn dài, bất lực.
Và bà thầm trách những đứa con
khỏe mạnh, chúng là một lũ vô
ân bạc nghĩa, ăn ở không nghĩa
không tình. Từ ngày anh hai nó
lên Nền Ngãi ở đến giờ chẳng
đứa nào vác mặt lên thăm, thậm
chí chẳng hỏi bây giờ bệnh tình
anh nó ra sao ? Còn gì là đạo lý,
hả trời ! Chúng đang ăn học là
tiền của ai ? Của anh chúng khi
còn khỏe mạnh làm ra cả thôi !
Phải chi anh Hòa không bệnh,
hẳn bây giờ bà đã có một hai
đứa cháu nội ẵm bồng. Người ta
thường nói, ở hiền gặp lành.
Không ! Bà không tin ! Con bà
đó, ở hiền hiếu thảo, sao chẳng
gặp lành ? Và bà ngồi như vậy
cho đến khi trời sáng.
Sáng hôm mùng chín, con Thà
vừa mở cửa đã thấy một giỏ tôm
đầy ắp để trước hàng ba. Nhìn
giỏ tôm bà Ngọ khóc : "Anh hai
mày đem về cúng ba mày đó !".
Chúng nó đứa thè lưỡi, đứa so
vai. Chẳng đứa nào dám đụng
vào giỏ tôm. Bà Ngọ tự làm lấy
đem lên bàn thờ cúng ông Ngọ :
"Ông ơi ! Ông có linh thiêng hãy
về đây chứng giám cho lòng
thành của đứa con tàn tật và
phù hộ độ trì cho nó !".
Mùa hè đến, cả ba dứa con Thà,
thằng Lý, con Mân đều ở nhà.
Đêm qua bà Ngọ bị sốt, sáng dậy
không nổi, bà bảo chúng dứa đi
chợ, đứa nấu cơm, đứa dem lên
Nền Ngãi cho anh hai. Đứa nào
cũng dành đi chợ hoặc nấu cơm
và từ chối việc đem lên Nền
Ngãi. Bà quát : "Lũ súc vật !
Chúng bây không có tình người !
Còn ở đó cải nữa tao giết không
còn một đứa !". Song bà chỉ dịnh,
con Thà đi chợ, con Mân nấu
cơm, thằng Lý đem lên Nền
Ngãi. Thằng Lý quạo quọ, mặt
chù bụ như cái mâm : " Đem thì
đem !". Còn mấy trăm thước nữa
mới tới Nền Ngãi, nó đặt xoong
cơm, dĩa cá kho và tô canh bí
lên bờ mẫu, gọi to lên : " Anh hai
ơi ! Ra lấy cơm !". Nghe gọi, anh
biết ngay thằng Lý, từ lúc lên
đây tới giờ anh chưa gặp nó. Anh
nhớ nó cồn cào. Nhiều lần anh
định nói với má kêu mấy dứa nhỏ
lên cho anh thăm, nhưng lại
thôi. Sợ em thấy mình tàn phế
nó buồn. Anh cố sức chạy ra khỏi
chòi và gắng giọng hét lên: "Anh
hai nghe rồi Lý ơi !". Nhưng khi
anh ra được tới chỗ dể cơm thì
thằng Lý đã quay mũi xuồng vào
xóm chống đi như ma duổi. "Lý !
Lý ơi !". Anh chạy theo, lại té lăn
cù xuống ruộng. Anh gượng đứng
lên : "Lý ơi ! Dừng lại anh hai nói
cái này !".
Nó vẫn chống sào xé nước. "Má
đâu ?". Vẫn không quay đầu lại,
nó đáp : "Má bệnh !". Anh dứng
lặng lẽ nhìn theo dến khi chiếc
xuồng khuất trong bờ lá. Anh
chậm chạp, nặng nề quay lại
bưng xoong cơm về chòi. Không
ăn ! "Không biết má bệnh gì ?
Có nặng lám không ? Má uống
thuốc gì chưa ? Mấy đứa nhỏ
chăm sóc má có chu đáo
không ? Má ăn cơm hay ăn
cháo ? Mình phải về nhà thăm
má ngay. Nhưng không dược !
Người mình lở lói như vầy. Tối
mình sẽ về ... sẽ về !". Anh ngồi
bên cửa chòi trông mặt trời
nhích dần ... nhích dần tưởng
như từng ly một. Từ khi sinh ra,
lớn lên cho tới bây giờ anh mới
thấy một ngày dài. Mặt trời ơi !
Hãy quay nhanh thêm chút nữa !
Nếu như có Đấng Tối Cao, người
bảo rằng : "Hỡi tên cùi khốn khổ
kia ! Ta sẽ cho ngươi toại
nguyện một trong hai điều :
Hoặc là ngươi lành bệnh, hoặc là
mặt trời lặn ngay !". Anh sẽ
bảo :"Xin thưa ! Con chọn mặt
trời lặn ngay !". Rồi chiều cũng
dần buông theo quy luật tự
nhiên. Mọi khi nghe tiếng cúm
núm kêu chiều anh buồn não
ruột, giờ lại thấy vui. Vừa chạng
vạng tối, anh ép cây sào giữa hai
bàn tay còi cọc, khổ nhọc chống
chiếc ghe đi. Anh neo ghe lại
một khúc vắng cách nhà hơn ba
trăm thước rồi lên bờ lê bước về
nhà. Kia rồi ! Căn nhà anh dã
sống gần hai mươi năm, ẩn mình
dưới một tán còng rộng lớn. Cây
còng anh đã bứng từ sau hè đình
đem về trồng từ mười năm
trước. Tim anh như muốn vỡ.
Căn nhà - Nền Ngãi cách nhau
không đầy ba cây số, vậy mà
suốt ba năm ròng rã anh mới
được về thăm. Giá mà bây giờ là
ban ngày để anh nhìn rõ từng
viên gạch lót nền, nẹp tre, tàu
lá. Bổng có ánh lữa phát ra từ
con cúi, cầm con cúi là một
người đàn bà, đứng bên cạnh
người đàn bà là con Thà : "Chà,
con Thà mau lớn quá, cao bằng
má rồi còn gì !". Anh muốn chạy
đến với nó. Không thể ! Nó nói :
"Cảm ơn bác hai tới thăm má
con !". "Bây sao màu mè quá !
Chỗ xóm giềng với nhau ! Khi má
mày khi tao ! Nè, dạo này tao
thấy má mày có cái gì hơi khác
khác. Coi chừng bả lên Nền Ngãi
hoài lây thằng Hòa đó ! Thôi,
bác hai về !". "Dạ !". Anh nhận
ra tiếng bà hai Hội. Dường về
nhà bà phải đi ngang qua chỗ
anh đứng. Anh vội nhảy xuống bờ
lá, thu mình co ro giữa mấy buội
bập bè, muỗi bị động ổ vây lấy
anh như hốt trấu vãi lên người.
Bà hai Hội bổng dừng lại nói với
con Thà còn ở giữa sân : "Tao
thấy có cục gì đen đen mới lăn
xuống dám lá !". "Có gì đâu, bác
hai !". "Thiệt mà !". "Bác nói
thấy ghê !". "Chắc là ma !".
"Không đâu bác ơi ! Chắc tại bác
quơ con cúi, bóng mấy tàu lá
dừa dọi xuống !". Bà hai Hội
bước gấp đi. Anh tự hỏi : "Mình
là ma sao ?". Câu nói của bà cứ
văng vẳng bên tai anh " ... coi
chừng bả lên Nền Ngãi hoài, lây
thằng Hòa dó !". Trời ơi ! Lẽ nào
tôi dã gieo rắc căn bệnh quái ác
này cho má tôi ? Má ơi ! Hãy
tha lỗi cho con ! Con sẽ không
làm khổ má nữa đâu ! Hòa bước
lên bờ, quay trở lại ghe được
một doạn. Không, mình phải gặp
má, phải thăm má. Cả ngày nay
mình trông đợi trời tối. Mình
phải biết bệnh tình của má ra
sao ? Anh quay trở lại và nép
mình bên gốc cây còng. Nhà dã
dóng cửa, không thấy gì được
bên trong, anh cố lắng tai nghe
xem có tiếng mẹ. Hình như mẹ
đã ngủ, chỉ mấy dứa em còn
thức. Con Thà :"Hồi sáng mầy có
gặp anh hai không ?". Thằng
Lý :"Em đâu dám nhìn ! Em để
cơm lên bờ mẫu rồi chống xuồng
về !". Con Mân :"Không biết
ngày mai má phân công ai đem
cơm lên cho ảnh ?". Con
Thà :"Mầy là cái chắc !". Con
Mân :"Trời ơi ! Ghê quá ! Vái
trời cho má phân công chị !".
"Đừng trù xui !". "Nho nhỏ, má
nghe được, bả chửi bây giờ !".
"Phải rồi ! Hồi chiều thằng Lý
không lên trển lấy xoong về,
sáng mai lấy gì dở cơm đem
lên !". "Lấy cái khác !". "Đặng bỏ
thêm cái nữa hả ?". "Tại chị kỷ
chứ mấy lần anh hai ăn cơm
không hết, má đem về hấp lại bả
ăn, có sau đâu !". "Mầy nói tao
mới nhớ, hồi nãy bác hai nói coi
chừng má lây anh hai đó !". "Má
lây anh hai thì chỉ có nước em
bỏ nhà đi thôi !". "Tao cũng
vậy !". "Tao cũng vậy luôn !".
Hòa nghĩ, vì mình mà cả gia đình
phải khổ sở như vậy. Không nghe
tiếng đứa nào nữa, anh đoán
chúng đã đi ngủ. "Chắc không
đứa nào dám ngủ với má. Vì sợ
mình lây bệnh cho má, má lây
qua tụi nó. Có lẽ chúng đang lo
sợ không biết mai má phân công
ai đem cơm lên Nền Ngãi cho
anh hai. Các em ơi ! Anh hai sẽ
không làm phiền các em nữa
đâu !". Anh núp bên gốc cây
còng, mặc cho sương rơi ướt
người, anh muốn uống lấy tất cả
những kỷ niệm để rồi mãi mãi
anh sẽ đi xa.
Hơn nữa đêm, chờ cho các em
ngủ say anh mới dò dẫm bước
vào hàng ba đưa tay cạo vách,
sát bộ ngựa gỗ mà mẹ đã ngủ từ
thuở mới gặp ba. Cào dến lần thứ
hai thì anh nghe tiếng mẹ trở
mình. Anh gọi khẻ :"Má ! Má
ơi !". Bà Ngọ ngồi bật dậy, quát
hỏi :"Đứa nào ? Đứa nào vừa kêu
má ?". Ba đứa nhỏ thức giấc,
bước tới giường bà :"Má chiêm
bao thấy gì mà mớ lớn dữ vậy ?".
"Má vừa nghe có đứa nào kêu
"má ơi !". "Má nằm mơ đó, có ai
kêu má đâu !". "Thôi, má ngủ
đi !". Bà Ngọ nằm xuống, tụi nó
cũng đi lên giường ngủ. Bà
không sao chợp mắt được, linh
tính của người mẹ báo cho bà
biết tiếng kêu má bà vừa nghe
không phải là trong mơ. Đến gà
gáy canh ba thì bà lại
nghe :"Má ! Má ơi!". Bà phóng
xuống giường : "Mấy đứa ơi !
Anh hai mầy về !". Đứa lớ ngớ,
đứa đốt thêm dèn. Lo các em sợ
hải khi thấy mình, anh liền vòng
ra phía sau nhà, chạy tuốt ra bờ
kênh. Bà Ngọ lúi húi mở chốt cửa
dưới và quát :"Mở chốt trên
dùm tao !". Mấy đứa nhỏ bước
tới hàng ba chúm lại, mắt dáo
láo liên đề phòng anh hai. Bà
Ngọ xách đèn cốc bước ra sân
gọi :"Hòa ơi ! Con ở đâu ? Sao
không ra gặp má ? Má biết là
con về ! Má có lỗi với con, vì mấy
hôm nay má bỏ con một mình !
Con ơi ! Hãy hiểu cho má. Vì mấy
đứa em con còn nhỏ. Bây giờ
chúng đã lớn hết rồi ! Ngày mai
má sẽ lên Nền Ngãi ở với con.
Má sẽ chăm sóc con, Hòa ơi ! Ra
đây với má đi con ! Má thương
con mà Hòa ! Hòa ơi ! Ra đây đi
con ! Con không thương má thì
con về đây làm chi hả Hòa ?". Im
lặng. Bà Ngọ ngồi xuống quơ tay
lên đầu tóc mượn, lấy cây móc
tai xỉa tiêm dèn lên cao, rồi lội
xuống đám lá tìm Hòa. Cây đèn
bị gió thổi tắt. Con Thà nắm tay
bà dắt lên. "Má ơi ! Má nghe ai
kêu ai ở đây há, rồi má tưởng
anh hai !". Bà quát : "Câm
mồm ! Tao đẻ nó ra, làm sao tao
không nhận ra tiếng của nó
chứ ?".
Một lúc lâu sau bà Ngọ mới chịu
lên nhà. Nhưng bà không ngủ,
lúi húi thu xếp dồ dạc quần áo,
xoong nồi, chén dĩa, củi đuốc dể
sáng mai lên Nền Ngãi ở với anh
Hòa. Mấy dứa nhỏ chẳng dứa nào
dám cản bà. Không biết chúng
sợ bà chửi hay sợ bà đã lây bệnh
của anh . Bà chồng chất lũ khũ
một đống trước hàng ba. Vừa tờ
mờ sáng trời đã đổ mưa. Mưa
mỗi lúc lại nặng hạt. Gió giật
từng cơn làm bà không sao đi
được. Mãi đến hơn chín giờ mưa
mới tạnh. Bà dọn đồ xuống
xuồng. Bà bước đi một cách khó
nhọc trên nền đất bùn nhão nhẹt
ngoài sân. Cuối cùng thì bà cũng
đem được những thứ đã chuẩn bị
xuống xuồng. Chống di ! Xuồng
cập bến Nền Ngãi bà không dám
gọi con như mọi khi, bà nghĩ,
trời mưa lạnh chắc nó đang ngủ.
Nách bà cặp bó củi, hai tay bà
xách xoong chảo bước lên chòi.
Cái mùng đã vắt lên rồi mà con
bà đâu không thấy. Lạ chưa ! Bà
gọi :"Hòa ơi !". Cũng không
nghe anh trả lời. Cái ghe đậu
dưới bến kia. Nó đi đâu ? Bà gọi
thêm một lúc nữa không nghe
con trả lời. Bà đâm hoảng ! Bà
càn vào những bụi ngãi cao
ngang đầu người. Vừa càn bà
vừa la làng :"Bớ làng xóm ơi !
Con tôi mất tiêu rồi !". Tiếng la
vọng vào xóm kinh Ông Hào. Lũ
trẻ ở kinh Ông Hào chạy qua
xóm Vàm Dinh kêu con Thà,
thằng Lý, con Mân. Chúng nó và
vài người đàn ông trong xóm
chạy lên :"Chuyện gì vậy bà
Ngọ ?". "Thằng Hòa mất tiêu
rồi !". Và gào thét. Thấy tội,
người ta vạch ngãi tìm với bà.
Được một lúc bà bỗng thét
lên :"Trời ơi ! Con tôi !". Người
ta chạy đến thì bà đã nhảy xuống
một cái huyệt được đào sẵn từ
bao giờ, trên thềm huyệt còn
vức lại cây len. Anh Hòa nằm
quay đầu về phía Tây, mặt ngửa
lên. Tất cả kêu rú lên kinh hãi
rồi lui ra xa. Bà Ngọ xốc anh Hòa
lên tay, người anh còn mềm
nhũn, oằn oại. Bà đặt anh lên
thềm huyệt trước rồi leo lên
sau. Bà lại bồng anh lên, chạy
vào chòi. Người ta không hiểu
bà Ngọ ốm yếu nhỏ thó như vậy,
tại sao lại thực hiện những động
tác ấy một cách nhanh nhẹn,
gọn gàng. Bà đặt anh lên giường
cởi quần áo, lau chùi, thoa dầu
đánh gió, giật tóc mai. Mọi việc
ấy chỉ mình bà làm. Người ta
túm tụm lại ở ngoài sân chòi.
"Hòa ơi ! Tĩnh lại đi con ! Má lên
đây ở với con nè ! Con chết rồi
má ở với ai ? Sao con im lặng,
không nói chuyện với má hả
Hòa ? Con còn giận má hả, con
ơi !". Một người đàn ông lên
tiếng :"Sao tụi bây không vô
trỏng kéo chị Ngọ ra ? Thằng
Hòa chết lâu rồi !". Cả ba dứa
chạy vào chòi, lôi bà ra sân. Đứa
nào cũng nôn thóc, nôn tháo. Bà
hét : "Buông tao ra ! Tao lên
đây ở với thằng Hòa !". Bà cào
cấu, cắn xé ba đứa nhỏ rồi ngất
lịm đi ! Người hàng xóm phân
công :"Con Thà, con Mân đưa
bà Ngọ về nhà chăm sóc, đừng
cho bả chạy lên trên này, thằng
Lý theo tao về nhà lấy ghe ra
chợ nhắc hòm !". "Má con cất
tiền không biết chỗ nào !".
"Nhắc chịu, mai mốt tính !".
Cái tin "Cùi Hòa" chết chẳng
mấy chốc lan truyền khắp cả
xóm. Khi biết để anh trên Nền
Ngãi người ta mới dám đến nhà
bà Ngọ chia buồn. Không biết
ngày ấy bà tỉnh rồi ngất, ngất rồi
tỉnh bao nhiêu lần. Khi tỉnh bà
bảo phải đem anh Hòa về nhà
khâm liệm. Người ta khuyên bà
nên giữ vệ sinh chung. Một vài
người đàn ông mặc áo cao su,
mang găng tay, bịt mồm bịt mũi
bằng đủ thứ loại khăn, trây trét
dầu cù là khắp người, rồi đưa
hòm lên Nền Ngãi tấn liệm anh
Hòa. Khi những người đàn ông
đã dắp xong mộ trở về thì những
người đàn bà mới buông bà ra.
Bà chạy bộ lên Nền Ngãi, băng
qua con kênh, lăn đùng ra mô
đất mới cào bới, rồi ngất lịm đi.
Người ta đốt bỏ cái chòi hôi
hám, bệnh hoạn.
Một tháng sau ngày anh Hòa
chết bà Ngọ mới lê bước xuống
giường. Và hai tháng sau nữa bà
mới cầm chiếc lược gỡ mái tóc
rối tung, bùi nhùi như ổ rơm.
Năm nay bà Ngọ đã bảy mươi.
Các con bà ai cũng có địa vị, nhà
cao cửa rộng trên tỉnh, trên
huyện. Mỗi lần họ về đều bàn
việc đưa bà lên tỉnh, lên huyện
ở, nhưng bà từ chối :"Tụi bây đủ
lông đủ cánh hết rồi, ăn đâu ở
đâu thì mặc. Còn tao ở đây
hương khói cúng kiếng cho ổng
với thằng Hòa !". Các con bà
biết ép cũng không được. Chị
Thà cho đứa con gái mười sáu
tuổi xuống cơm nước cho ngoại.
Thanh minh năm nay chị Thà,
anh Lý, chị Mân về đầy đủ. Bà
nói :"Mai là ngày tốt, tụi bây lên
Nền Ngãi lấy cốt anh hai bây về
cho nó nằm gần ổng, sau vườn ".
Các anh chị nhìn nhau im lặng,
ai cũng sợ khơi lên cái ổ vi trùng
làm ảnh hưởng môi trường. Cuối
cùng chị Thà nói :"Anh hai nằm ở
đó đã hai chục năm rồi ! Dời tới
dời lui chi cho động mồ mả !".
Anh Lý phụ họa : "Anh chết như
vậy chính quyền người ta không
cho đào bới lên đâu !". Chị Mân
thêm vào: " Chị Thà, anh Lý nói
phải đó má ! Hay dể tụi con hùn
tiền xây cái mã đá !". Bà Ngọ
quát :"Thôi thôi, không làm
phiền mấy người ! Mấy người
không làm thì để tôi tự làm !".
Biết tính bà Ngọ nói thì làm.
Trời chưa sáng rõ các anh chị
cáo từ lên tỉnh lên huyện với
nhiều lý do khác nhau. Họ không
muốn ở lại để nghe người đời
nguyền rủa, để cho bà già đi bốc
mộ một mình. Chị Thà không
quên nói với bà Ngọ cho con gái
chị về tỉnh trông em vài ngày để
chị đi công tác ở Vũng Tàu. Bà
cũng chẳng cần giữ lại làm gì.
Bà mướn mấy tay thanh niên ở
xóm lên Nền Ngãi bốc mộ anh
Hòa, đào cái huyệt bên cạnh mộ
ông Ngọ và đóng cái quách đựng
hài cốt. Hai việc sau thì họ nhận
làm dùm, còn việc trước thì họ
từ chối cho dù bà có ra giá bằng
một tháng tiền công. Không làm
thì thôi, để tự bà. Cái quách
đóng một chút đã xong, bà đem
bỏ xuống xuồng và mang theo
bánh mứt, nhang đèn, len cuốc,
xô chậu ... bơi lên Nền Ngãi. Dến
mộ anh Hòa, bà bày bánh mứt
đốt nhang khấn vái :"Hòa ơi !
Bữa nay má đem con về nhà.
Nếu có linh thiêng phù hộ cho
má khỏe mạnh, đào mau thấy
con !". Bà bắt dầu cuốc. Từng
nhát cuốc giơ lên bổ xuống rất
khó nhọc, nhưng bà lại không
thấy mệt mỏi chút nào. Bà cuốc
và cuốc mãi ... cuốc mãi ! Lúc
mặt trời ngã bóng thì ló ra một
mảnh ván. Bà khóc. Bà nghĩ tay,
uống nước rồi lại cuốc. Đến khi
con nhắc nhen kêu thì bà đã cạy
lên được từng mảnh ván vụn của
nắp hòm mục ruỗng. Bà lại khóc.
Nước mắt và máu từ đôi tay bà
rơi vào một dòng nước trong
xanh thấy rõ từng dốt xương
người. Kia là mảnh xương sọ, kia
là những chiếc xương sườn, kia
là đôi xương ống chân... Bà bước
vào dòng nước ấy nhặt nhạnh
từng dốt xương, lau chùi sạch sẽ
chất vào xô. Bà làm xong việc
thì hoàng hôn đã bao trùm lên
vạn vật. Bà lọ mọ xách cái xô
chứa hài cốt anh Hòa xuống
xuồng chất vào cái quách đã lót
sẵn cao su. Xong bà đóng nắp
quách lại. Bơi xuồng về nhà.
Đêm !
Dưới lòng đất tiếng côn trùng nỉ
non ai oán, xa xa tiếng vạc ăn
đêm kêu sương buồn tẻ, trời âm
u vần vũ, lác đác một vài vì tinh
tú nhạt nhòa cô độc, thỉnh
thoảng một ngôi sao băng xẹt
qua rồi mất hút giữa màn đêm
băng giá, leo lét mấy ngọn đèn
cầy mờ ảo cắm trên chiếc quách
soi đường cho bà Ngọ đặt dầm
đạp nước đưa con về nhà. Bà ỳ
ạch, khó nhọc đẩy cái quách lên
bờ, ra sau vườn nơi có cái huyệt
mấy tay thanh niên đào sẵn. Bà
gắng sức đặt được cái quách
xuống đáy huyệt. Xong bà lấp
đất. Lấp mãi ! Mưa lắc rắc ! Mưa
nặng hạt ! Nước mưa tan trong
những giọt nước mắt của bà. Bà
lấp mãi cho đến nữa đêm thì đầy
huyệt. Bà lấp mãi cho đến gà
gáy sáng đã thành một mô dất
nhô cao.
Bà áp mặt lên ngôi mộ mới thầm
thì :"Hòa ơi ! Giá mà thuở ấy có
thuốc như bây giờ!" [trang chu]